Bên cạnh những đóng góp tích cực của nguồn vốn FDI cho tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, vẫn còn nhiều dự án FDI có tác động tiêu cực đến môi trường, gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường xã hội. Thông qua đánh giá thực trạng thu hút vốn FDI vào Việt Nam, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hơn nữa nguồn vốn này trong phát triển xanh tại Việt Nam trong giai đoạn tới.

VIỆT NAM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH  TỪ TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng xanh từ tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. (Ảnh minh họa)

1. Đặt vấn đề

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có một thời gian dài nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác, xuất khẩu tài nguyên thô và hiện đang phải đối mặt với những thách thức của tiến trình phát triển, như: Biến đổi khí hậu (BĐKH), ô nhiễm môi trường, an sinh xã hội. Theo Báo cáo chỉ số phát triển thế giới của World Bank (2020), Việt Nam có tốc độ phát thải nhanh nhất khu vực Đông Nam Á với cường độ carbon đạt 502,1 triệu tấn CO2 quy đổi vào năm 2020 và 888,8 triệu tấn CO2 vào năm 2030, gia tăng 51% so với giai đoạn 2004-2014. Tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính (KNK) của Việt Nam đã cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực, như: Malaysia, Indonesia, Trung Quốc – nơi được coi là có tốc độ tăng trưởng phát thải nhanh nhất thế giới. Ảnh hưởng của BĐKH toàn cầu, sự suy thoái của môi trường đã và đang gây ra các tác động tiêu cực đến đời sống con người và tạo ra áp lực trong việc thúc tăng trưởng xanh hướng tới phát triển bền vững của Việt Nam. Chính vì vậy, trong thời gian qua, tại Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến chính sách tăng trưởng xanh nhằm đảm bảo phát triển kinh tế theo hướng hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần giảm nhẹ và phòng chống tác động của BĐKH. Một trong những nội dung quan trọng để thực hiện lộ trình tăng trưởng xanh của Việt Nam là vấn đề giảm phát thải KNK trong mọi lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế. Theo đó, trong Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” với mục tiêu giảm cường độ phát thải KNK trên GDP; xanh hóa các ngành kinh tế. Chiến lược đặt ra mục tiêu giảm cường độ phát thải KNK trên GDP; phấn đấu đến năm 2030, cường độ phát thải KNK trên GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014; đến năm 2050, cường độ phát thải KNK trên GDP giảm ít nhất 30% so với năm 2014. Mục tiêu này cũng một lần nữa được tái khẳng định mạnh mẽ hơn tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH COP26, lần đầu tiên Việt Nam cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải bằng nguồn lực của chính mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và cam kết giảm phát thải khí mê-tan 30% vào năm 2030. Để thực hiện giảm phát thải KNK theo cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia cũng như hướng nền kinh tế phát triển theo hướng tăng trưởng xanh, việc huy động các nguồn lực, nhất là nguồn vốn thúc đẩy tăng trưởng xanh là rất cần thiết. Trong thời gian qua, bên cạnh các chính sách, chương trình hành động liên quan tới đầu tư xanh và tăng trưởng bền vững, Chính phủ Việt Nam cũng rất quan tâm tới việc thu hút vốn đầu tư xanh từ tất cả các khu vực kinh tế bởi thực tế hiện nay cho thấy, Việt Nam đang cần thêm rất nhiều vốn phục vụ cho tăng trưởng xanh. Cụ thể, nhu cầu về nguồn tài chính khí hậu đang ngày càng gia tăng, dự kiến đến năm 2030 sẽ chiếm 3-5% GDP mỗi năm. Ước tính, Việt Nam cần 30 tỷ USD cho giai đoạn 2016-2030 để thích ứng với BĐKH, giảm phát thải KNK.

Bên cạnh các nguồn lực khác, dòng vốn FDI tiếp tục được Chính phủ đề cao là kênh đầu tư quan trọng, giúp Việt Nam ứng phó hiệu quả với BĐKH, xây dựng nền kinh tế tăng trưởng xanh.

2. Vốn FDI với tăng trưởng xanh và nội hàm của nó

Có nhiều quan điểm khác nhau về tăng trưởng xanh. Theo UNEP (2011) “tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải KNK, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng trong xã hội”. Theo OECD (2012) “tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của con người”. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050 khẳng định: “Tăng trưởng xanh định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững”.

Từ các nghiên cứu trên, trong nghiên cứu này cho rằng: “Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải KNK, ứng phó với BĐKH, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững”. Như vậy, tăng trưởng xanh xác định 3 nhiệm vụ chiến lược, gồm: (i) Giảm cường độ phát thải KNK và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (ii) Xanh hóa sản xuất và (iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

Đầu tư xanh có thể được giải thích theo những cách khác nhau. Vào những năm 1990, người ta nhắc nhiều tới khái niệm đầu tư gắn với trách nhiệm xã hội (Socially responsible investment – SRI) và đầu tư gắn với môi trường, xã hội và quản trị (Environmental, Social and Governance – ESG) với việc tập trung mạnh mẽ vào các vấn đề quản trị bao gồm các yếu tố môi trường. Nói cách khác, các khoản đầu tư xanh vượt ra ngoài các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận bởi vì chúng còn được tính toán dựa trên các tiêu chí về quản trị, đạo đức, môi trường và xã hội. Trong những năm 2000, khái niệm liên quan tới tính bền vững và đầu tư dài hạn trở nên phổ biến hơn, đặc biệt một số quỹ đầu tư xanh đã thể hiện quan tâm nhiều hơn đối với sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên (Vivid Economics in association with McKinsey và Co, 2011). Một cách tổng quát, đầu tư xanh là một quá trình đưa ra các quyết định đầu tư dựa trên các tiêu chí bảo vệ môi trường với mục đích: (i) Tác động tích cực đến môi trường; (ii) Tạo ra một khoản lợi nhuận tài chính nhất định đối với các khoản đầu tư được thực hiện.

Thu hút vốn FDI hay còn gọi là vốn nước ngoài, được hiểu là hoạt động kêu gọi nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài cho các dự án, hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể. Mục đích của việc kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài là nhằm có nguồn vốn để phát triển dự án, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Theo đó, thu hút vốn FDI để thúc đẩy tăng trưởng xanh được hiểu là: thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài cho các dự án, hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể nhưng đảm bảo giảm phát thải KNK, ứng phó với BĐKH, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và giảm sự mất công bằng trong xã hội. Như vậy, thực chất thu hút FDI nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh là thu hút các dòng vốn này vào dự án đầu tư xanh, thân thiện với môi trường.

3. Nhu cầu đầu tư xanh của Việt Nam và nguồn tài chính tài trợ

Báo cáo của Monre (2019) cho thấy, nhu cầu đầu tư xanh của Việt Nam giai đoạn 2020-2030 ước tính khoảng 50 tỷ USD, trong đó khoảng 20 tỷ USD đáp ứng phát triển năng lượng tái tạo và 30 tỷ USD còn lại để phát triển các lĩnh vực khác (Hình 1).

VIỆT NAM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH  TỪ TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Như vậy, nhu cầu đầu tư xanh của Việt Nam tương đối lớn, đến năm 2030 dự báo cần khoảng 90.000 tỷ USD để đạt được các mục tiêu khí hậu và phát triển bền vững toàn cầu. Chỉ tính riêng đối với khu vực ASEAN, nhu cầu nguồn vốn hỗ trợ đầu tư xanh ước tính khoảng 2.650-3.000 tỷ USD, bình quân cần tới 200 tỷ USD/năm trong giai đoạn 15 năm. Trong đó riêng thị trường Việt Nam chiếm khoảng 16% tổng quy mô của toàn thị trường ASEAN, đứng vị trí thứ 2 chỉ sau Indonesia (chiếm 36%), đặc biệt nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo tương đối lớn. Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, tiềm năng để phát triển lĩnh vực năng lượng tái tạo cũng như các lĩnh vực khác ngày càng tăng cao, nhưng việc tiếp cận và khơi thông nguồn vốn đầu tư cho các dự án xanh lại là một bài toán khó đặt ra.

Nguồn vốn phục vụ cho các dự án đầu tư xanh của Việt Nam đến từ hai nguồn là nguồn vốn từ khu vực công và khu vực tư nhân. Cụ thể nguồn vốn khu vực công được hình thành từ: (1) Nguồn tài chính nhà nước, được quy định trong Luật Ngân sách nhà nước, cụ thể đó là các khoản chi cho bảo vệ môi trường thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; (2) Nguồn tài chính hỗ trợ từ phía nhà nước thông qua chính sách ưu đãi về thuế, đất đai; (3) Nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua các khoản tín dụng quốc tế và dự án tài trợ từ nguồn vốn FDI cho các hoạt động bảo vệ môi trường, hỗ trợ các dự án sản xuất thân thiện môi trường. Nguồn vốn khu vực tư được hình thành từ: (1) Nguồn vốn từ các doanh nghiệp phục vụ cho các dự án sản xuất kinh doanh thân thiện môi trường; (2) Nguồn vốn của các định chế tài chính thương mại.

Trong thời gian qua với nỗ lực của mình, Chính phủ đã cố gắng hướng dòng vốn đầu tư từ cả khu vực công và khu vực tư vào các lĩnh vực xanh thông qua nguồn nội lực trong nước, song khả năng cung ứng vốn còn thiếu hụt nghiêm trọng so với nhu cầu đầu tư.

4. Thực trạng thu hút vốn FDI nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh ở Việt Nam

4.1. Kết quả đạt được

Bước sang năm 2020, do tác động tác động của đại dịch Covid-19 khiến nền kinh tế thế giới cũng như Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề. Theo đó, các dòng vốn đầu tư ra nước ngoài giảm mạnh, đặc biệt là đầu tư FDI.

Lượng vốn FDI năm 2020 vào Việt Nam đạt 28,5 tỷ USD, giảm 5,06% so với năm 2019 (Hình 2). Trong năm 2021, mặc dù đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, nhưng vốn FDI vào Việt Nam đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020. Năm 2022, vốn FDI vào Việt Nam khoảng 27,72 tỷ USD, chỉ bằng 89% so với cùng kỳ năm 2021. Kết quả này thể hiện những nỗ lực đáng kể của Việt Nam trong chính sách thu hút vốn FDI, với mong muốn cải thiện năng suất, cải thiện tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư thấp, điều này một mặt thể hiện khả năng hấp thụ nguồn vốn này của Việt Nam còn rất hạn chế, mặt khác cũng hàm ý rằng, tỷ lệ vốn này không có giá trị thực tế mà nằm ở các dự án đã đăng ký nhưng chưa triển khai, chậm giải ngân, hoãn thực hiện hay năng lực tài chính của các doanh nghiệp FDI có nhiều bất cập. Đây thực chất là hậu quả của việc trong một thời gian dài Việt Nam chủ yếu chạy đua thu hút FDI về quy mô mà không chọn lọc kỹ lưỡng cơ cấu đầu tư cũng như khả năng thực hiện đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng đăng ký vượt quá số vốn để nhận được nhiều ưu đãi (thuế, diện tích đất dự án…).

VIỆT NAM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH  TỪ TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Về cơ cấu FDI, cho tới nay, FDI đã có mặt trong 19 trên 21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam. Song, FDI có sự chênh lệch đáng kể giữa các ngành kinh tế và nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực tăng trưởng xanh vẫn còn chiếm tỷ trọng khá ít trong cơ cấu. Hầu hết các dự án FDI của Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực không thân thiện với môi trường, mức phát thải cao, điển hình là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 16,8 tỷ USD, chiếm 60,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư hơn 4,45 tỷ USD, chiếm 16,1% (Hình 3).

Tiếp theo lần lượt là các ngành sản xuất, phân phối điện; hoạt động chuyên môn khoa học – công nghệ với vốn đăng ký đạt lần lượt hơn 2,26 tỷ USD và gần 1,29 tỷ USD. Một trong số các lý do khiến cho ngành công nghiệp hấp thụ được lượng FDI lớn là trong giai đoạn đầu mở cửa kinh tế, Việt Nam khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp và chế biến nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

VIỆT NAM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH  TỪ TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Ngoài lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, đầu tư FDI vào các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ cũng có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là những ngành có thế mạnh của Việt Nam, song đầu tư nước ngoài vào những ngành này còn khá hạn chế. Tính đến hết năm 2021, lượng vốn FDI vào ngành này mới chỉ đạt 3,7 USD với 516 dự án đầu tư (chiếm chưa tới 1% tổng vốn FDI vào Việt Nam). Một trong những nguyên nhân chính do chính sách thu hút, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài của các địa phương chưa thực sự hấp dẫn. Mặc dù vậy, trong những năm gần đây, Việt Nam đã chú trọng thu hút các dự án công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp hướng tới nông nghiệp xanh sạch, hoặc các lĩnh vực năng lượng tái tạo. Một số dự án thu hút FDI điển hình trong thúc đẩy đầu tư xanh có thể kể đến, như:

(i) Dự án nhà máy trung hòa carbon đầu tiên của LEGO tại Bình Dương (được khởi công vào ngày 03/11/2022) dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất trong năm 2024. Đây là dự án của LEGO – tập đoàn sản xuất đồ chơi lớn nhất thế giới có trụ sở chính tại Đan Mạch có tổng đầu tư hơn 1 tỷ USD. Theo kế hoạch, nhà máy sẽ sử dụng năng lượng mặt trời bằng các tấm pin được lắp đặt trên mái nhà, đồng thời, VSIP (Vietnam Singapore Industrial Park) cũng sẽ thay mặt LEGO xây dựng một dự án năng lượng mặt trời ở gần đó. Khi cả hai kết hợp lại, mạng lưới năng lượng mặt trời sẽ sản xuất năng lượng tái tạo để đáp ứng 100% yêu cầu năng lượng hàng năm của nhà máy (Nhật Xuân, 2022). Ngoài ra, việc xây dựng sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn LEED Gold (Leadership in Energy and Environmental Design) về sử dụng năng lượng, nước và chất thải có trách nhiệm, đồng thời được thiết kế để vận hành các trang thiết bị sử dụng năng lượng điện nhằm nâng cao hiệu quả bền vững. Các cam kết phát thải sẽ được Tập đoàn LEGO thực hiện bằng cách cùng VSIP trồng 50.000 cây xanh tại Việt Nam để bù đắp cho thảm thực vật bị thiệt hại trong quá trình xây dựng nhà máy.

(ii) Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn tại Bình Thuận. Đây là dự án đang được phát triển bởi đơn vị quản lý dự án cao cấp của CIP là Copenhagen Offshore Partners (COP). Dự án đã lắp đặt được 2 trụ đo gió trên bờ và đạt được những tiến bộ đáng kể trong quá trình thực hiện. Dự án có công suất 3,5GW, với tổng số vốn đầu tư lên tới 10,5 tỷ USD. Dự kiến khi hoàn thành có thể cung cấp năng lượng sạch cho hơn 7 triệu gia đình Việt Nam, giảm thiểu 130 triệu tấn khí thải CO2, đồng thời đóng góp hơn 4 tỷ USD cho nền kinh tế Việt Nam.

(iii) Dự án nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Bạc Liêu. Đây là dự án đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài, do Công ty Delta Offshore Energy Pte.Ltd (Singapore) làm chủ đầu tư, cùng Tập đoàn Bechtel (Mỹ) là tổng thầu EPC (Engineering, Procurement and Constrution) và các đối tác. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 4 tỷ USD (tương đương 93.600 tỷ VND) (Trung Đức, 2020). Dự án được thiết kế với tổng công suất 3.200 MW. Nhà máy áp dụng công nghệ tiên tiến của Tập đoàn General Electric, với dòng máy tuabin khí chu kỳ hỗn hợp 9HA-02, đáp ứng yêu cầu của Chính phủ về năng lượng sạch và an toàn lưới điện.

(iv) Dự án Nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt công nghệ cao T&J tại Bắc Ninh. Đây là dự án do Công ty TNHH Năng lượng xanh là chủ đầu tư, được ký kết hợp tác đầu tư vào tháng 11/2021 bởi Tập đoàn công nghiệp JFE Nhật Bản và Công ty Cổ phần Môi trường Thuận Thành. Tổng mức đầu tư của dự án khoảng 58 triệu USD, trong đó, Bộ Môi trường Nhật Bản tài trợ 20 tỷ Yên (tương đương 18 triệu USD), Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) hợp tác tài trợ số vốn vay là 30 triệu USD và 10 triệu USD còn lại là vốn đối ứng của chủ đầu tư (Cảnh Hưng, Minh Huế, 2021). Theo kế hoạch, nhà máy sẽ được thiết kế với công suất xử lý 500 tấn rác thải sinh hoạt/ngày, hiệu suất phát điện 11,6 MW và có thể tạo ra hơn 91.800 MWh năng lượng sạch mỗi năm. Nhà máy được khởi công xây dựng vào tháng 01/2022 và dự kiến đi vào hoạt động trong quý IV/2023.

4.2. Một số tồn tại và thách thức

Thu hút vốn FDI thúc đẩy tăng trưởng xanh ở Việt Nam còn gặp một số thách thức, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, cụ thể như sau:

– Chính sách thu hút vốn FDI hiện vẫn mang nặng tính hình thức hơn là thực chất. Mặc dù đã ban hành nhiều văn bản thể hiện quan điểm, định hướng khá rõ ràng về thu hút vốn FDI nói chung và vốn FDI trong thúc đẩy tăng trưởng xanh, chẳng hạn như: Nghị quyết 103 NQ-CP, ngày 29/8/2013 của Chính phủ về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý FDI; Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030 (theo QĐ số 667/QĐ-TTg, ngày 12/6/2022; Nghị quyết 50 NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030… Tuy nhiên, các nội dung trên vẫn chưa được các cấp chính quyền, địa phương triển khai và cụ thể hóa bằng các chương trình hành động cụ thể. Ngoài ra, việc phối hợp và thực hiện các chính sách này còn khá lỏng lẻo, chưa thật sự chặt chẽ.

– Nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI có mức tăng trưởng rất nhanh, từ 0,407 triệu lao động năm 2000 lên 4,6 triệu lao động năm 2019. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2017, gần 80% số người làm việc trong các doanh nghiệp FDI là lao động không có bằng cấp/chứng chỉ đào tạo và tỷ lệ này gần như không thay đổi kể từ năm 2011. Hiện nay, Việt Nam chưa có chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho riêng đối tượng các doanh nghiệp FDI.

– Cơ sở hạ tầng nhằm thu hút vốn FDI vào Việt Nam, nhất là đối với các dự án đầu tư xanh chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Đầu tư cơ sở hạ tầng ở Việt Nam thực chất ít về giá trị tuyệt đối, lại bị dàn trải nên hệ thống hạ tầng vẫn ở mức lạc hậu trong các nước châu Á. Quy mô GDP nhỏ nên vốn thực tế vào cơ sở hạ tầng vẫn thấp so với nhu cầu, thực tế nước ta vẫn chưa có được hệ thống hạ tầng chất lượng để đáp ứng yêu cầu của dòng vốn FDI chất lượng cao vào các lĩnh vực xanh, thân thiện môi trường.

5. Giải pháp thu hút vốn FDI cho thúc đẩy tăng trưởng xanh ở Việt Nam

Để đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút nguồn vốn FDI cho tăng trưởng xanh tại Việt Nam trong giai đoạn tới, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách, như sau:

Một là, hoàn thiện các văn bản luật pháp liên quan đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án đầu tư xanh. Theo đó, (i) Cần hoàn thiện thể chế, luật pháp để khắc phục các hạn chế trong thiếu tính hệ thống, sự chồng chéo và không nhất quán giữa các bộ luật; (ii) Rà soát lại các văn bản pháp luật về đầu tư nhằm nâng cao chất lượng văn bản, giảm bớt những nội dung không tương thích với luật pháp quốc tế, cập nhật những cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; (iii) Quy định rõ ràng và chi tiết, dễ dàng áp dụng các thủ tục và điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư, nhất là với các dự án đầu tư xanh; (iv) Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục, điều kiện đầu tư, về danh mục địa bàn, lĩnh vực, đối tượng được áp dụng ưu đãi đầu tư trong các luật về đầu tư nước ngoài và các luật có liên quan để thống nhất trong thực hiện.

Hai là, cần tập trung triển khai các giải pháp để một mặt thu hút lao động có kỹ năng vào khu vực FDI, mặt khác nhanh chóng đào tạo lại cho công nhân để thích ứng với các thay đổi của khoa học công nghệ. Sự thay đổi này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam, thúc đẩy quá trình chuyển dịch từ lao động thu nhập thấp sang lao động có trình độ cao, thu nhập cao và chống nguy cơ bị sa thải. Ngoài ra, khuyến khích sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo trên địa bàn để có được nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về nguồn lao động tại các cơ sở sản xuất – kinh doanh chuyển đổi số. Từng bước chuyển từ lao động thủ công lạc hậu sang sử dụng lao động với công nghệ (phương tiện, phương pháp) tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng trí tuệ cao và gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực có sức sáng tạo với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.

Ba là, ưu tiên các dự án xây dựng một số cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI, như: Hệ thống giao thông, lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường, sản xuất điện từ các loại năng lượng mới và sạch (năng lượng gió, thủy triều, năng lượng mặt trời), lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin…

6. Kết luận

Vốn FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho phát triển kinh tế, giúp các quốc gia tiếp cận công nghệ mới, mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. Trên thực tế, sau hơn 35 năm thu hút vốn FDI, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể bên cạnh những tác động không nhỏ của các dự án FDI đến môi trường xã hội.

Để việc thu hút vốn FDI thực sự trở thành bàn đạp giúp nền kinh tế phát triển theo hướng tăng trưởng xanh, cần các giải pháp đồng bộ từ nhiều bên liên quan nhằm tháo gỡ các rào cản trong thu hút các dòng vốn này trong giai đoạn tới.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022), Báo cáo Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2021, Nxb Khoa học và Kỹ thuật.

2. Cảnh Hưng, Minh Huế (2021), Bắc Ninh khởi động dự án nhà máy xử lý chất thải rắn công nghệ cao phát năng lượng, truy cập từ: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/bac-ninh-khoi-dong-du-an-nha-may-xu-ly-chat-thai-ran-cong-nghe-cao-phat-nang-luong-86001.htm.

3. Nhật Xuân (2022), LEGO đầu tư 1 tỷ USD xây dựng nhà máy trung hòa carbon đầu tiên, truy cập từ https://doanhnghiepvn.vn/cong-nghe/lego-dau-tu-1-ty-usd-xay-dung-nha-may-trung-hoa-carbon-dau.

4. OECD (2012), Towards Green Growth: Monitoring Progress, OECD Indicators, OECD Publishing.

5. Tổng cục Thống kê (2022), Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và cả năm 2022.

6. Trung Đức (2020), Dự án nhà máy điện LNG 4 tỷ USD tại Bạc Liêu. Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng và tiết kiệm hiệu quả (VNEEP), truy cập từ: https://tietkiemnangluong.com.vn/tin-tuc/hop-tac-quoc-te/t26325/du-an-nha-may-dien-khi-tu-nhien-hoa-long-4-ty-usd-tai-bac-lieu.html.

7. UNEP (2011), Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication, Geneva: United Nations Environment Programme (UNEP).

8. Vivid Economics và McKinsey (2011), Green Investment Bank, ScienceDirect.

9. Vivid Economics (2019). Hỗ trợ đầu tư xanh tại Việt Nam: vai trò của tổ chức tài chính xanh.

TS. VŨ THANH NGUYÊN
Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

https://kinhdoanhvaphattrien.vn/viet-nam-thuc-day-tang-truong-xanh-tu-tang-cuong-thu-hut-von-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-33185.html