Sau hơn 30 thực hiện đổi mới, kinh tế – xã hội Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Năm 2022, với tốc độ tăng trưởng đạt được là 8,02%, nền kinh tế Việt Nam đã đánh dấu mốc mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008. Việt Nam đã được các tổ chức và bạn bè quốc tế đánh giá thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất châu Á cũng như thế giới. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, quá trình đổi mới đã giúp đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, so với các nước phát triển, Việt Nam vẫn là nước có mức thu nhập trung bình, mức độ cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ thu nhập của người dân là năng suất lao động thấp, mức độ ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh hạn chế. Do đó, để tiếp tục có những bước phát triển đột phá trong giai đoạn mới, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, vượt ra khỏi bẫy thu nhập trung bình, hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững, một trong những giải pháp căn cơ, nền tảng nhất là phải chuyển đổi số mạnh mẽ, đi đầu khu vực trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Chuyển đổi số quốc gia thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững ở Việt Nam
PGS.TS. Phạm Quang Thao – Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. (Ảnh: Vusta)

2. Chuyển đổi số quốc gia và vai trò của nó trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững

Hiện nay, định nghĩa về chuyển đổi số chưa có chuẩn hóa, nhiều tổ chức, doanh nghiệp có các định nghĩa riêng của mình, nhưng trên một góc nhìn tổng quát: Chuyển đổi số (Digital Transformation) là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Nội dung chuyển đổi số của các nước có khác nhau, phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên, nói chung đều hướng tới các nội dung chính sau:

– Chuyển đổi số nền kinh tế (kinh tế số), bao gồm: (i) Phát triển các doanh nghiệp số; (ii) Chuyển đổi số cho các doanh nghiệp truyền thống (hướng tới sản phẩm tích hợp số; chuyển đổi mô hình kinh doanh trên nền tảng số; thay đổi quy trình sản xuất dựa trên dữ liệu số, tự động hóa, ảo hóa…); (iii) Phát triển tài chính số; (iv) Phát triển thương mại điện tử;

– Chuyển đổi số xã hội (xã hội số), trong đó tập trung vào các lĩnh vực như: ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm khoảng cách xã hội (như giáo dục, y tế, văn hóa, an toàn an ninh xã hội…);

– Chuyển đổi số trong một số ngành trọng điểm để phát triển kinh tế – xã hội (như nông nghiệp, du lịch, điện lực, giao thông…);

– Chuyển đổi số trong cơ quan Chính phủ (Chính phủ số), hướng tới cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho người dân, tăng cường sự tham gia người dân trong các hoạt động cơ quan nhà nước; tăng cường hiệu quả hoạt động và đổi mới trong các cơ quan nhà nước; phát triển dữ liệu mở của cơ quan nhà nước để tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội.

Để thực hiện chuyển đổi số theo các lĩnh vực trên, cần xác định các yếu tố nền tảng cần bảo đảm, bao gồm: (i) Phát triển hạ tầng số (phát triển mạng di động thế hệ mới, kết nối cáp quang đến các gia đình, doanh nghiệp, cung cấp WiFi miễn phí tại khu vực công cộng, phát triển điện toán đám mây – cloud computing, hạ tầng IoT, BigData…); (ii) Phát triển lực lượng lao động có kỹ năng số (digital skills); (iii) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu công nghệ số mới; (iv) Xây dựng môi trường pháp lý để bảo đảm môi trường an toàn, tin cậy, thúc đẩy chuyển đổi số.

Chuyển đổi số quốc gia thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững ở Việt Nam
Chuyển đổi số là xu hướng toàn cầu và là điều kiện tiên quyết trong phát triển bền vững của mỗi người dân, doanh nghiệp và quốc gia. (Ảnh minh họa)

Chuyển đổi số là xu hướng toàn cầu và là điều kiện tiên quyết trong phát triển bền vững của mỗi người dân, doanh nghiệp và quốc gia. Trước hết, đối với mỗi người dân, chuyển đổi số làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao dịch với nhau. Mang lại nhiều trải nghiệm thú vị trong công việc, học tập và đời sống hàng ngày. Còn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế, những lợi ích dễ nhận biết nhất của chuyển đổi số đối với họ, đó là cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên… những điều này giúp tăng hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp được nâng cao. Cuối cùng đối với một quốc gia, việc áp dụng công nghệ và chuyển đổi số là những yếu tố góp phần quan trọng giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội dẫn đến thành công và tăng trưởng GDP cao của Việt Nam trong 4 thập kỷ qua sẽ không tiếp tục mang lại sự tăng trưởng và thịnh vượng như cũ trong tương lai. Để chuyển từ trạng thái thu nhập trung bình sang thu nhập cao, Việt Nam cần phải vượt ra khỏi vị trí là một thị trường lao động chi phí thấp phụ thuộc nhiều vào FDI để tăng trưởng xuất khẩu, Việt Nam cần chuyển sang nâng cao năng lực sử dụng công nghệ để tăng năng suất trong tất cả các ngành công nghiệp. Con đường phía trước là thông qua cải thiện năng suất lao động và các ngành công nghiệp dựa trên tri thức thông qua áp dụng công nghệ, số hóa, cải cách hệ thống, phát triển kỹ năng và giáo dục.

Như vậy, nhờ chuyển đổi số nên các lĩnh vực trong nền kinh tế đều áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, gia tăng hiệu quả lao động, sản xuất ổn định và bền vững của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế.

3. Thực trạng chuyển đối số quốc gia của Việt Nam trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững

3.1. Chiến lược, lộ trình chuyển đổi số tại Việt Nam

Việt Nam đang đi con đường đúng đắn trong hoạch định và từng bước đầu tư chuyển đổi số một cách bài bản khi là một trong những quốc gia đầu tiên ban hành các chính sách thể hiện chiến lược trong chuyển đổi số, thông qua:

– Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/09/2019 của Bộ Chính trị “về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã nhấn mạnh mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP và trên 30% GDP vào năm 2030, với năng suất lao động tăng trên 7%/năm. Năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu sẽ trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo dẫn đầu châu Á.

– Ngày 03/06/2020, Chính phủ tiếp tục phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 (theo Quyết định số 749/QĐ-TTg). Trong đó nêu rõ, tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động, quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn và rộng khắp. Trong chương trình Chuyển đổi số quốc gia, chính phủ đã nêu rõ mục tiêu, lộ trình và giải pháp triển khai, gồm có:

(i) Chính phủ cũng đã định hình 03 nhóm mục tiêu chính đến 2030 gồm: (1) Phát triển chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động; (2) Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (3) Phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số. Với nhiều tiêu chí cần đạt được tương ứng với từng nhóm mục tiêu, hướng tới Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chính phủ điện tử, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (ICT Development Index – IDI), về chỉ số cạnh tranh (Global Competitiveness Index – GCI) và đổi mới sáng tạo (Global Innovation Index – GII), phổ cập dịch vụ internet băng rộng, phổ cập dịch vụ mạng di động 5G và trên 80% dân số có tài khoản thanh toán điện tử.

(ii) Chính phủ cũng đã chỉ ra những nhóm nhiệm vụ và giải pháp tạo nền móng chuyển đối số. Chuyển đổi nhận thức về sứ mệnh, sự cần thiết, tính cấp thiết của chuyển đổi số trong xã hội để kiến tạo thể chế theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số. Từ đó, định hướng các nhiệm vụ và giải pháp phát triển hạ tầng số, nền tảng số, tạo lập niềm tin nhằm đảm bảo an toàn, an ninh mạng.

(iii) Nhằm phát triển kinh tế số, Chính phủ chủ trương phát triển 4 loại hình doanh nghiệp số gồm: (1) Các tập đoàn và doanh nghiệp lớn chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực công nghệ số, đầu tư nghiên cứu công nghệ lõi; (2) Các doanh nghiệp công nghệ thông tin tiên phong nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ số; (3) Các doanh nghiệp khởi nghiệp ứng dụng công nghệ số để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới; và (4) Ươm mầm các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo về công nghệ số. Nền kinh tế ưu tiên chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang làm sản phẩm theo hướng “Make in Việt Nam”; phát triển sản phẩm nội dung số, truyền thông số, quảng cáo số; hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp truyền thống sang cung cấp sản phẩm và dịch vụ trên nền tảng số; phát triển thương mại điện tử. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã chủ trương ưu tiên một số ngành, lĩnh vực chuyển đổi số trước, trong đó chú trọng triển khai các sáng kiến nhằm liên kết giữa các ngành, lĩnh vực. Các lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số: (1) Lĩnh vực y tế, phát triển nền tảng khám chữa bệnh từ xa và từng bước xây dựng hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh trên các công nghệ số; (2) Lĩnh vực giáo dục, phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập cũng như số hóa tài liệu, giáo trình và xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giáo dục; (3) Lĩnh vực tài chính – ngân hàng, phát triển dịch vụ ngân hàng số theo hướng đa dạng kênh phân phối, đổi mới và sáng tạo, tự động hóa quy trình toàn diện với các ngành thuế, hải quan, kho bạc và chứng khoán; (4) Lĩnh vực nông nghiệp, chú trọng phát triển nông nghiệp cao theo hướng nông nghiệp thông minh, chính xác, xây dựng hệ thống dữ liệu lớn của ngành và xây dựng mạng lưới quan sát, giám sát phục vụ hoạt động nông nghiệp; (5) Lĩnh vực giao thông vận tải và logistics, phát triển hệ thống giao thông thông minh, hệ thống giao thông đô thị và chuyển đổi hạ tầng logistics, phát triển các nền tảng quản lý và kết nối; (6) Lĩnh vực năng lượng; (7) Lĩnh vực tài nguyên và môi trường; và cuối cùng (8) Lĩnh vực du lịch – Du lịch thông minh. Sự phát triển của nền kinh tế số đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đối với hầu hết các ngành nghề và lĩnh vực truyền thống của xã hội Việt Nam và yêu cầu nguồn nhân lực số đặc trưng cũng đòi hỏi việc đào tạo nguồn nhân lực cần phải đổi mới cả mô hình và cơ cấu, thay đổi tư duy từ chỉ cần học một lần để làm việc suốt đời sang học suốt đời mới đủ khả năng làm việc suốt đời.

– Ngày 22/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định Quyết định số 505/QĐ-TTg về Ngày chuyển đổi số Quốc gia. Theo đó, ngày 10/10 hằng năm được chọn là Ngày chuyển đổi số Quốc gia. Ngày Chuyển đổi số Quốc gia được tổ chức hằng năm nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ về chuyển đổi số quốc gia, thực hiện có hiệu quả Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đã đề ra.

3.2. Kết quả chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam

Tính đến nay, công cuộc Chuyển đổi số quốc gia tại Việt Nam đã đạt được những dấu ấn bước đầu rõ nét. Chuyển đổi số đang dần thay đổi các hoạt động hàng ngày của người dân từ việc mua hàng trên các trang thương mại điện tử, đặt xe taxi qua ứng dụng trên điện thoại hoặc sử dụng các ứng dụng ngân hàng số, học trực tuyến, tư vấn khám chữa bệnh từ xa… Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, báo cáo kết quả chuyển đổi số của Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số vào tháng 8/2022 cho thấy, 100% các bộ, ngành, địa phương đã kiện toàn Ban Chỉ đạo chuyển đổi số; 52 nền tảng số đã được phát triển và công bố trên website: makeinVietNam.mic.gov.vn. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến đủ kiều kiện được cung cấp trực tuyến mức độ 4 là 97,3%. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; Cổng Dịch vụ công quốc gia đã được tích hợp với 3.552 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp truy cập thuận tiện đến dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước các cấp… Các cơ sở dữ liệu quốc gia khác như bảo hiểm, hộ tịch, đăng ký doanh nghiệp đã đi vào vận hành ổn định, đang mang lại hiệu quả tích cực. Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai cũng đang được tích cực triển khai; bước đầu thí điểm chia sẻ thông tin dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Như vậy, chuyển đổi số của Việt Nam đã thực hiện bao trùm trên cả ba trụ cột: Hạ tầng số; chính phủ số; kinh tế số và xã hội số.

Chuyển đổi số quốc gia thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững ở Việt Nam
Chuyển đổi số đang dần thay đổi các hoạt động hàng ngày của người dân. (Ảnh minh họa)

Đối với hạ tầng số đã được phát triển nhanh, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt trong thời đại số, cụ thể: Hạ tầng viễn thông đã phủ rộng khắp toàn quốc hơn 600.000km cáp quang, với tốc độ truy nhập cao (đạt > 27MBps). Số thuê bao băng rộng cố định hơn 13 triệu (trong đó hơn 12 triệu thuê bao sử dụng cáp quang FTTx, tốc độ truy nhập hơn 10MBps). Tổng băng thông quốc tế đạt hơn 8,1TBps. Mạng di động phát triển, tỷ lệ phủ sóng đạt 99,7%. Mạng di động 5G đã được cấp phép thử nghiệm, khi triển khai sẽ là bước đột phá về tốc độ kết nối, là nền tảng quan trọng kết nối hạ tầng IoT trong chuyển đổi số. Tỷ lệ người dân có điện thoại thông minh và có đường internet cáp quang rộng ngày có chiếm tỷ trọng lớn và gia tăng trong tương lai (Bảng 1). Như vậy, có thể nói mạng viễn thông đã đi trước một bước trong chuẩn bị hạ tầng cho chuyển đổi số.

Đối với chính phủ số: Trong thời gian qua công nghệ thông tin đã được ứng dụng trong cơ quan nhà nước để phát triển Chính phủ điện tử, góp phần cải cách hành chính. Cổng dịch vụ công quốc gia đã cung cấp 3.699 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 (nộp hồ sơ trực tuyến và nhận kết quả tại nhà); hơn 2,1 triệu tài khoản đăng ký (tăng hơn 2,8 lần so với cùng kỳ); hơn 122,7 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái (tăng hơn 2 lần). 41/63 tỉnh, thành phố triển khai 36.300 tổ công nghệ số cộng đồng đến tận thôn, xóm với gần 200.000 thành viên tham gia.

Đối với kinh tế số và xã hội số: Quy mô thị trường thương mại điện tử B2C của Việt Nam có sự tăng trưởng đáng kể, năm 2015, doanh thu B2C đạt 5 tỷ USD, đến năm 2022, doanh thu đã tăng trưởng lên 16,4 tỷ USD, chiếm 7,5% doanh thu hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của cả. Ước tính, số lượng người tiêu dùng mua sắm trực tuyến ở Việt Nam lần đầu tiên có thể sẽ chạm mốc 60 triệu. Giá trị mua sắm trực tuyến của một người dùng sẽ tiếp tục tăng mạnh, dự báo đạt 260-285 USD/người trong năm 2022. Tỷ trọng đóng góp của kinh tế số trong GDP tiếp tục tăng. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP đến hết 6 tháng đầu năm 2022 ước tính là 10,41% (năm 2021 là khoảng 9,6%); mục tiêu đến năm 2025 đạt 20%. Số lượng doanh nghiệp công nghệ số ước đạt 67.300 doanh nghiệp, tăng gần 3.500 doanh nghiệp so với năm 2021, đạt tỷ lệ 0,69 doanh nghiệp trên 1.000 dân. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử là 100% (Bảng 1). Bên cạnh đó, công nghệ thông tin đã được ứng dụng khá rộng rãi trong xã hội góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, giảm khoảng cách xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực giáo dục và y tế. Nhiều ứng dụng công nghệ được triển khai trong công tác đào tạo (các bài giảng điện tử; học trực tuyến…), trong quản lý giáo dục (hệ thống thông tin quản lý tuyển sinh, quản lý kết quả học tập học sinh…). Trong lĩnh vực y tế cùng vậy, gần 100% các bệnh viện các tuyến trên cả nước triển khai ứng dụng phần mềm quản lý bệnh viện trong hoạt động của mình.

Chuyển đổi số quốc gia thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững ở Việt Nam

Tại Việt Nam, chuyển đổi số làm thay đổi cơ bản nền kinh tế trên tất cả các lĩnh vực then chốt, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này còn chưa tương xứng với tiềm năng của quốc gia và gặp không ít thách thức đến từ nhiều phía, gồm có:

Thứ nhất, thách thức nền tảng công nghệ đáp ứng chuyển đổi số. Chuyển đổi số chính là việc ứng dụng công nghệ vào mọi hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện trong thời đại bùng nổ về công nghệ trên nền tảng của hệ thống internet, chính vì vậy, đòi hỏi trình độ cao cả về kỹ thuật cũng như nhân lực. Trong khi đó, Việt Nam vẫn còn đi sau thế giới về mặt công nghệ, chưa làm chủ được các công nghệ lõi của chuyển đổi số, các hệ thống nền tảng cơ bản. Chính vì vậy, chuyển đổi số tại Việt Nam hiện vẫn cơ bản sử dụng các công nghệ sẵn có trên thế giới.

Thứ hai, khó khăn từ vốn đầu tư. Đầu tư cho chuyển đổi số là đầu tư để thay đổi, từ nhận thức, chiến lược, nhân lực, kết cấu hạ tầng tới giải pháp công nghệ, vì vậy, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Tuy vậy, việc phải đầu tư lớn về tài chính và nhân lực đã tạo rào cản lớn với các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì thiếu vốn, nên nhiều doanh nghiệp cho rằng, chuyển đổi số là “cuộc chơi” của các doanh nghiệp lớn. Vì thiếu vốn nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam thường chọn “điện toán đám mây” là công nghệ để đầu tư nhiều nhất, bởi cho phép các doanh nghiệp mở rộng nhanh chóng khi có nhu cầu mà không phải đầu tư nhiều vốn vào kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin.

Thứ ba, việc xây dựng môi trường pháp lý hiện nay vẫn rất chậm, chưa theo kịp nhu cầu xã hội phát sinh, đặc biệt trong các lĩnh vực mới khi thực hiện chuyển đổi số. Cụ thể như thiếu hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế chia sẻ; chia sẻ, mở dữ liệu của cơ quan chính phủ, của doanh nghiệp; bảo vệ dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư; vấn đề quyền, đạo đức khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo… Điều này gây cản trở rất lớn cho quá trình chuyển đổi số.

Thứ tư, sự hạn chế về số lượng, sự thiếu hụt nhân lực có chuyên môn cao và các kiến thức bắt kịp xu hướng thay đổi của thị trường công nghệ đã khiến cho nhân sự công nghệ thông tin cấp cao ngày càng trở nên khan hiếm, dẫn tới sự cạnh tranh về lương để thu hút nhân tài giữa các doanh nghiệp. Điều này làm cản trở quá trình chuyển đổi số trong các lĩnh vực của nền kinh tế, khi mà yếu tố con người là then chốt và khó có thể thay thế hoàn toàn bởi máy móc, thiết bị.

Thứ năm, thách thức từ nhận thức của doanh nghiệp. Chuyển đổi số sẽ tác động tới toàn bộ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, gây nên nhiều áp lực cho các nhà quản trị ngay từ vấn đề nhận thức tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với sự phát triển doanh nghiệp, nguồn tài chính đến tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia của đông đảo người lao động tại doanh nghiệp, về tính hiệu quả của chuyển đổi số… Chuyển đổi số phải bắt đầu từ sự thay đổi tư duy người lãnh đạo, từ chiến lược, tư duy truyền thống sang chiến lược, tư duy kinh doanh công nghệ số hiệu quả.

4. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số nhằm phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới

Để quá trình chuyển đổi số đồng bộ và bao trùm, trở thành động lực phát triển bền vững nền kinh tế, cần một số giải pháp cơ bản như sau:

– Hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số; Cải cách thể chế để thu hút đầu tư công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số; Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy định pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông; Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

– Chuyển đổi nhận thức (nhận thức số). Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số, muốn chuyển đổi số trước hết phải chuyển đổi nhận thức. Coi số hóa nền kinh tế là cuộc cách mạng chính sách, có thái độ tích cực về công nghệ và sáng tạo, chấp nhận những công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới. Các cơ quan nhà nước có vai trò dẫn dắt, định hướng, có phương thức quản lý linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho chuyển đổi số.

– Phát triển hạ tầng số, nền tảng số. Tập trung phát triển hạ tầng số, nền tảng số là nhiệm vụ hàng đầu, là giải pháp đột phá thúc đẩy sự phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số. Các thành phần của hạ tầng số phục vụ chính phủ số liên quan và tác động lẫn nhau, như kết nối liên thông phải đi cùng chia sẻ dữ liệu và phải được bảo đảm bởi pháp luật. Công tác xây dựng hạ tầng số là việc cần kiên trì, sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân từ trung ương đến địa phương.

– Tăng cường giáo dục kỹ thuật số, thúc đẩy đào tạo nguồn lao động chất lượng cao. Giáo dục trong nền kinh tế số không chỉ để thúc đẩy sự nhận thức chung về cơ hội, thách thức của nền kinh tế số mà đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng lực lượng lao động có kỹ năng, sẵn sàng thích ứng và nắm bắt cơ hội.

Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi số đã và đang trở thành một xu hướng tất yếu để con người có thể phát triển và sinh tồn và là động lực quan trọng cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trên cơ sở nhận diện những vấn đề cơ bản, một số kết quả đạt được cũng như hạn chế trong quá trình chuyển đối số. Mỗi địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần nhanh chóng hoạch định cho mình một chiến lược và kế hoạch hành động thực hiện chuyển đổi số phù hợp./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

2. Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam (2021), Báo cáo tóm tắt đề xuất kế hoạch chuyển đổi số 2022.

3. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 về phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

4. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 505/QĐ-TTg, ngày 22/4/2022 về Ngày chuyển đổi số quốc gia”.

PGS.TS PHẠM QUANG THAO
Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

https://kinhdoanhvaphattrien.vn/chuyen-doi-so-quoc-gia-thuc-day-nen-kinh-te-phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-33203.html