(KDTT) – Muốn phát triển kinh tế – xã hội, ngoài yếu tố công nghệ, vốn… phải dựa vào yếu tố nguồn nhân lực. Song, phát triển đất nước ở bất kỳ thời kỳ nào cũng không thể dựa vào nguồn nhân lực chung chung mà cần phải có nguồn nhân lực phát triển. Hay nói cách khác nguồn nhân lực đó đã có biến đổi về số lượng, cơ cấu và chất lượng, nguồn nhân lực đã qua đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, ngày càng đáp ứng được yêu cầu tốt hơn của nền kinh tế.
Khái niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo khái niệm của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của con người hiện có hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế – xã hội trong một cộng đồng”. Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ “vốn con người” bao gồm: thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… mà mỗi cá nhân thành viên sở hữu.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khái niệm nguồn nhân lực là toàn bộ số người trong độ tuổi có khả năng lao động, hiểu theo nghĩa rộng, đây là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội; theo nghĩa hẹp, là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự nghiệp phát triển xã hội.
Từ khái niệm trên cho thấy: Nguồn nhân lực là nguồn vốn con người (hay là tổng thể số lượng và chất lượng con người) có thể lực, trí lực và tâm lực của một quốc gia, vùng, lãnh thổ đã, đang và sẽ sử dụng hoặc được sử dụng để tạo ra những lợi ích cho xã hội (dưới dạng vật chất và tinh thần).
Trong quá trình phát triển của đất nước có rất nhiều nguồn lực khác nhau để phát triển xã hội. Tuy nhiên, xét trong mối quan hệ giữa các nguồn lực thì nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định các nguồn lực khác. Từ khái niệm trên cho thấy: bất kỳ xã hội nào cũng có nguồn nhân lực vì bất cứ xã hội nào cũng đều có con người. Trong đó, bản chất và quá trình phát triển đã bồi đắp cho họ có cả trí và lực. Vấn đề khác nhau là những con người đó sử dụng và được sử dụng vốn họ có đem lại lợi ích cho xã hội (tức là cái tự thân và cái xã hội sử dụng) không? Đối cái tự thân thì bất cứ con người nào cũng có nhu cầu nên họ đều mong muốn đưa hết khả năng của mình để mang lại lợi ích cho xã hội, trong đó có cá nhân. Vấn đề quan tâm hiện nay là xã hội sử dụng nguồn lực đó như thế nào? đúng mục đích cho xã hội hay không?. Đây cũng chính là vấn đề cốt lõi khi đề cập tới nguồn nhân lực, là yếu tố nói lên sự khác biệt giữa xã hội này với xã hội khác, quốc gia này với quốc gia khác và thế hệ này với thế khác, thậm chí nhà nước này khác với nhà nước khác. Tóm lại, vấn đề sử dụng đúng nhân tài sẽ nói lên sự tiến bộ, dân chủ của từng quốc gia.
Chính từ quan điểm nguồn nhân lực như vậy nên có thể có nhiều cách hiểu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Dưới góc độ định tính, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động có khả năng đáp ứng được những vấn đề quan trọng của kinh tế xã hội để từ đó tạo ra hiệu quả cao trong giải quyết công việc cho sự tăng trưởng và phát triển xã hội.
Tiếp cận theo định lượng, nguồn nhân lực chất lượng cao là những con người được trang bị tri thức, có trình độ cao về chuyên môn. Khái niệm tri thức ở đây bao gồm các nội hàm là con người được đào tạo cơ bản, được đào tạo càng cao và chuyên sâu thì nhân lực đó càng có chất lượng cao; Còn nói về trình độ cao về chuyên môn tức là nói về cách thức thể hiện tri thức đó trong thực tế với trình độ của các chuyên gia lành nghề.
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được hiểu là là một bộ phận của nguồn nhân lực trong xã hội, được thể hiện vai trò nòng cốt, tiêu biểu đáp ứng những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn.
Hay nói cách khác nguồn nhân lực chất lượng cao được đánh giá bởi nhiều yếu tố: thể lực, trí lực, khả năng lao động, tính tích cực chính trị – xã hội, đạo đức, tình cảm …của nguồn lực con người. Các yếu tố này có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau nhằm giúp chủ thể phát huy hết giá trị của mình. Theo đó, biểu hiện cụ thể của nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được xem xét ở những vấn đề cơ bản sau:
Về thể lực
Có thể nói, một yếu tố không thể thiếu đối với nguồn nhân lực chất lượng cao là sức khỏe. Sức khỏe ngày nay không chỉ được hiểu là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại năng suất lao động cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai. Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp hay lao động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa, cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau và trong những thử thách hết sức khó khăn và khắc nghiệt.
Về trí lực
Trí tuệ là yếu tố thiết yếu, quan trọng nhất của con người, của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngày nay, sự phát triển nhan và mạnh của khoa học – công nghệ yêu cầu người lao động có học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, làm việc chủ động, sử dụng được các công cụ hiện đại. Năng lực trí tuệ biểu hiện ở khả năng sử dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ được kỹ thuật công nghệ hiện đại. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH càng đi vào chiều sâu thì càng đòi hỏi trình độ chuyên môn hóa cao của nhân lực để đạt năng suất cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn hơn nhiều lần.
Về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp
Yêu cầu cơ bản đối với con người trong xã hội đó là phải có tâm, lòng nhân hậu và vị tha, phải biết trân trọng lao động và quý trọng sức lao động của người khác. Phải biết yêu thương và san sẻ tình yêu thương trong cuộc sống. Đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, những người có thể lực, trí lực và trình độ hiểu biết chuyên, nếu thiếu đi những điều này, đôi khi sẽ gây ra những hậu quả khó lường đối với con người và xã hội.
Tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao
Tiêu chí thể hiện những đặc trưng chung cho bản chất sự vật, hiện tượng; tiêu chí có thể được xác định bởi các yếu tố định tính và định lượng.
Tiêu chí định tính xác định nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm:
* Là những người có trình độ học vấn từ đại học, hoặc người lao động lành nghề có trình độ từ trung học trở lên. Đây là tiêu chí cứng thể hiện bản chất cơ bản của nguồn nhân lực chất lượng cao. Trình độ học vấn được xác định bởi mặt bằng chung của khu vực và thế giới; được đánh giá theo lứa tuổi hoặc ngành nghề, thậm chí theo cấp học.
* Là người có trình độ nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật chuyên ngành cao hơn mức trung bình nguồn nhân lực của một quốc gia, vùng, lãnh thổ. Đây là tiêu chí quyết định chất lượng nguồn lực, nó được thể hiện được sự gắn kết giữa trình độ và kỹ năng của chất lượng nguồn nhân lực.
* Là người có phẩm chất năng lực thực tế, có tính sáng tạo, giải quyết mọi vấn đề nhanh chóng và có hiệu quả; là lực lượng nòng cốt có khả năng tổ chức trong hoạt động tập thể nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có ích cho xã hội. Đây là tiêu chí quan trọng được thể hiện dưới dạng sở thích cá nhân, tập quán, phong cách, đạo đức, truyền thống văn hóa… Trước diễn biến, biến động của các tình huống trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, tiêu chí này nói lên vai trò người cầm đầu thể hiện bản chất cao của nguồn nhân lực.
* Là người có yếu tố sức khỏe để đáp ứng các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Đây là chỉ số phát triển của con người để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao; tiêu chí này bao gồm các trạng thái tinh thần và thể chất xã hội; ngoài ra các tiêu chí cơ bản phản ánh bản chất bên ngoài của con người như chiều cao, cân nặng, bệnh tật, tuổi thọ…Tiêu chí sức khỏe còn thể hiện sự dẻo dai, sức chịu đựng, sự tập trung trí tuệ để mang lại lợi ích kinh tế – xã hội.
Tiêu chí định lượng bao gồm:
Nguồn chất lượng cao được xác định bởi số lượng con người nhất định trong từng giai đoạn phát triển hoặc trong các ngành nghề của một quốc gia, vùng lãnh thổ.
Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê năm 2018, Việt Nam có hơn 90 triệu người, có 55,35 triệu lao động, là một nước có nguồn lao động dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2018 chúng ta có hơn ba phần tư (chiếm 76,8%) dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động. Tuy nhiên phần lớn lực lượng lao động này là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo (kể cả sơ cấp ngắn hạn) còn cao và chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng, miền. Nếu nguồn nhân lực chất lượng cao được giới hạn ở nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cao thì tỷ lệ này có thấp hơn nhiều, bảng dưới đây phản ánh lao động đã qua đào tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao qua các năm.
Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2018 thì trong tổng số hơn 55,3 triệu người đang tham gia lực lượng lao động của cả nước (từ 15 tuổi trở lên), thì chỉ có hơn 12,2 triệu người được đào tạo, chỉ chiếm 22% tổng lực lượng lao động. Như vậy, nguồn nhân lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật thấp. So sánh với các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… lực lượng lao động đã qua đào tạo của chúng ta chỉ bằng 1/3 của các nước này[8]. Con số này đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho những cố gắng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực lao động phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Với tỷ lệ quá thấp như ở trên thì số lao động có chuyên môn kỹ thuật cao (CMKTC) so với yêu cầu của các doanh nghiệp có khoảng cách quá xa.
So sánh số liệu theo 6 vùng kinh tế – xã hội thì tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng (30,7%) và thấp nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (13,3%). Tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên khác nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng này cao nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng (13,7%), Tây Nguyên là vùng có tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ từ đại học trở lên thấp nhất (5,7%).
Bên cạnh sự phân bố nguồn nhân lực đã qua đào tạo không đồng đều giữa các vùng thì sự không phù hợp giữa bằng cấp được đào tạo và nghề nghiệp trong thực tiễn của người lao động còn cao, đặc biệt trong nhóm có trình độ từ đại học trở lên. Đến Quý II năm 2018, trong tổng số gần 54,0 triệu lao động có việc làm, có khoảng 11,6% (tương đương gần 6,3 triệu người) tự đánh giá công việc chính hiện tại là chưa phù hợp với ngành/nghề được đào tạo và 1,9% (tương đương 1,01 triệu người) coi đó là công việc tạm thời trong thời gian chờ đợi/tìm kiếm một công việc khác thay thế. Kết quả này cho thấy sự lãng phí nguồn lực, đồng thời giảm chất lượng của lao động do không được làm đúng ngành nghề đào tạo.
Trên đây mới chỉ là sự đánh giá thông qua các số liệu về mặt định lượng đã cho thấy chúng ta còn thiếu rất nhiều lao động chất lượng cao (được hiểu là tốt nghiệp cao đẳng và đại học). Còn về chất lượng thì người sử dụng lao động nhìn nhận nguồn nhân lực của chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế ở cả 3 nhóm yếu tố tạo nên năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ).
Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế bền vững
Tầm quan trọng của nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế xã hội đã được Đảng khẳng định từ rất lâu. Ngay tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định phải thực hiện 3 khâu đột phá hiện đang được coi là khâu yếu, điểm nghẽn cản trở sự phát triển, nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra xung lực mới có sức lan tỏa mạnh, giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho việc phát triển nhanh và bền vững. Ba khâu đó là: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Trong 3 khâu đột phá, khâu đột phá phát triển nguồn nhân lực là quan trọng nhất, vì như nhà kinh tế học William Petty đã nói: “lao động là cha, đất là mẹ của mọi của cải vật chất”. Ở một khía cạnh khác, thời đại mà chúng ta đang sống có 3 đặc điểm lớn chi phối sự phát triển của các quốc gia: khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, rất mạnh; toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng; các liên kết kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều, thúc đẩy sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu; tình trạng khan hiếm các nguồn nguyên liệu thiên nhiên không tái tạo được. Những đặc điểm nêu trên làm nổi bật vai trò ngày càng tăng của nguồn lực con người – lợi thế cạnh tranh động trong quá trình phát triển và là nhân tố làm chuyển dịch lợi thề so sánh của các quốc gia.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức và trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết định của nguồn lực con người trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững phải dựa trên ít nhất 3 trụ cơ bản là: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là con người được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm năng lực sáng tạo để trở thành nguồn vốn-vốn con người-vốn nhân lực”. Bởi vì trong một nền kinh tế toàn cầu đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, hơn lúc nào hết ưu thế cạnh tranh nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một xã hội ổn định. Kinh nghiệm ở một số nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á, Bắc Á (Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia) khi xây dựng chiến lược cạnh tranh trong tương lai, đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Mặt khác, nếu xem xét dưới góc độ phát triển bền vững bao gồm tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường thì phát triển nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu cuối cùng là đỉnh cao nhất của quá trình phát triển mỗi quốc gia. Vì nó gắn liền với phát triển con người và lấy con người làm trung tâm của sự phát triển.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Từ việc phân tích tầm quan trọng của nguồn và nhân lực chất lượng cao trong phát triển kinh tế bền vững của đất nước cũng như đánh giá thực trạng và nguyên nhân những hạn chế của nguồn nhân lực chúng tôi đề xuất một số giải pháp phát triển NNLCLC cần được tập trung vào các nội dung lớn sau đây:
Nhóm giải pháp đối với Nhà nước:
– Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện, gồm những yếu tố thể lực, tri thức, kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội trên cơ sở coi phát triển nhân lực là khâu đột phá để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển nhân lực phải có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng phát triển nhân tài, xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành.
– Tiếp tục phát triển hệ thống GDĐT, coi đó là yếu tố cơ bản trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có đào tạo nghề, nhờ đó người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kỹ năng nghể của mình, để nâng cao năng suất lao động góp phần phát triển kinh tế bền vững.
– Đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao nhằm nâng cao trí lực và thể lực cho người dân. Nhà nước cần xây dựng hệ thống khung pháp lý và chính sách khuyến khích phát triển nhân lực, thực hiện đúng chức năng định hướng và điều tiết phát triển nguồn nhân lực, mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào phát triển nhân lực. Thu hút doanh nghiệp tham gia mạnh vào phát triển nhân lực đồng thời hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo một cách toàn diện.
Nhóm giải pháp đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo:
– Các cơ sở giáo dục, đào tạo cần xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, lựa chọn phương pháp đào tạo phù hợp với chuẩn mực quốc tế và mang tính đặc thù Việt Nam. Chuyển đổi một cách mạnh mẽ quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
– Cần làm tốt công tác phân luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông để đảm bảo tỉ lệ đào tạo nghề và đào tạo cao đẳng, đại học một cách hợp lý.
– Các cơ sở đào tạo cần thực hiện tốt hoạt động “liên kết nhà trường và doanh nghiệp” để nắm bắt kịp thời nhu cầu của các tổ chức và doanh nghiệp từ đó điều chỉnh chương trình đào nhằm giảm độ vênh giữa lý thuyết và thực tiễn công việc.
Nhóm giải pháp đối với chủ thể sử dụng lao động (doanh nghiệp, tổ chức):
– Xuất phát từ ý nghĩa đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững, các doanh nghiệp và tổ chức cần quan tâm hơn nữa hoạt động đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, tạo động lực mạnh mẽ trong việc tự nâng cao trình độ, kỹ năng ở người lao động thông qua các chính sách thù lao và đãi ngộ một cách hợp lý.
Bạn đang đọc bài Nguồn nhân lực chất lượng cao: Từ thực tiễn đến giải pháp để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững tại chuyên mục Thời sự.
Cung cấp thông tin, liên hệ đường dây nóng: 0968527066.
Hoặc Email: bandientukdtt2022@gmail.com
Theo KDPT