Đó là thông tin được đưa ra tại tọa đàm “Công tác Dân số – Kế hoạch hóa gia đình với sự phát triển kinh tế xã hội bền vững” do Viện Đào tạo, Tư vấn và Phát triển kinh tế (IDE) tổ chức sáng 30/8 tại Hà Nội. Tọa đàm có sự tham dự của PGS.TS Đặng Văn Thanh, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện IDE; Ông Nguyễn Quốc Hải – Viện trưởng Viện IDE; Các đại diện Vụ Xã hội; Vụ Tài chính Ngân sách Quốc hội; Đại diện Bộ Tài chính; Ông Vũ Tú Thành Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình và các chuyên gia trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Phát biểu khai mạc, PGS.TS Đặng Văn Thanh, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện IDE cho biết, chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế – xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Ý thức rõ tầm quan trọng của vấn đề dân số đối với phát triển kinh tế – xã hội bền vững của đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra Chiến lược Dân số Việt Nam đến 2030, và tiếp đó Chính phủ đã triển khai một loạt các quyết định, chương trình hành động để cụ thể hoá chiến lược này. Nhờ vậy, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 và duy trì đến nay. Dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng kể trên, công tác dân số kế hoạch hoá gia đình vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Mặc dù hệ thống y tế và dân số tại Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể trong việc cung cấp các dịch vụ tránh thai cho người dân, vẫn còn nhu cầu rất lớn chưa được đáp ứng về kế hoạch hoá gia đình, dẫn đến tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn, cũng như phá thai còn rất đáng lo ngại. Thực trạng này đang gây ra những hệ luỵ tiêu cực đến sức khoẻ của phụ nữ cũng như áp lực lên hệ thống y tế quốc gia và những tác động lớn về kinh tế và xã hội.
Theo thống kê của Viện Guttmacher năm 2022, Việt Nam có 3,7 triệu phụ nữ mang thai hàng năm; 2,1 triệu người mang thai ngoài ý muốn (59%), trong đó có 1,6 triệu ca nạo phá thai (75%). Tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn và nạo phá thai của Việt Nam đang ở mức 86% là cao hơn nhiều so với các nước láng giềng như Indonesia (40%), Philippines (71%), Thái Lan (38%).
Tại tọa đàm, ông Mai Trung Sơn, Phó Vụ trưởng, Vụ Quy mô dân số, Tổng Cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình cho biết vùng có mức sinh cao có xu hướng kết hôn sớm, sinh nhiều, sinh dày và ngược lại, vùng có mức sinh thấp lại kết hôn muộn, sinh ít và sinh thưa hơn.
Cũng theo ông Sơn, công tác dân số không chỉ là câu chuyện về bao cao su. Đó là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn xã hội. Ông Sơn lấy dẫn chứng về câu chuyện học sinh trung học cơ sở tiếp cận với tình dục, nhưng bản thân gia đình và nhà trường không nắm bắt được dẫn tới hậu quả đáng tiếc. Hay câu chuyện về những người lao động có hai con, phải rất vất vả mới duy trì được cuộc sống khi tiền gửi trẻ, tiền thuê nhà và chi phí sinh hoạt đã ngốn hết tiền lương của hai vợ chồng. Bên cạnh đó là khó khăn trong giải ngân nguồn vốn ngân sách đối với công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Nguồn lực dành cho công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình còn hạn hẹp. Trong khi đó, các biện pháp ngừa thai như cấy que, đặt vòng còn phụ thuộc vào giá thành, đấu thầu, mua sắm công… dẫn tới tình trạng người dân có nhu cầu tránh thai còn khó khăn khi tiếp cận.
Tất cả những khó khăn đó đều dẫn tới những hệ lụy không tốt đối với xã hội.
Tại tọa đàm, các chuyên gia cũng chỉ rõ một số thành tựu của công tác dân số – kế hoạch gia đình đối với sự phát triển kinh tế – xã hội cũng như một số vướng mắc, khó khăn.
Theo bà Nguyễn Thanh Hải (Ủy ban Tài chính- Ngân sách, Quốc hội), những khó khăn, vướng mắc về tài chính, ngân sách của công tác dân số một phần do cơ chế tài chính. Theo bà Hải, để luật hóa và đưa vào cuộc sống cần có các văn bản pháp luật cụ thể cho công tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Vấn đề không phải do thiếu tiền mà là các thủ tục hành chính, công tác giải ngân. Do đó cần hoàn thiện hơn về cơ chế chính sách và luật pháp. Bà Hải cũng bày tỏ thời gian tới Luật Ngân sách và Luật Dân số sẽ giải quyết được những vấn đề còn tồn đọng trong công tác dân số.
Còn theo bà Vũ Thị Hải Yến – Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính tài chính sự nghiệp – Bộ Tài chính, công tác truyền thông trong lĩnh vực dân số – kế hoạch hóa gia đình còn nhiều bất cập. Đồng thời, với những thiết bị, vật tư cho lĩnh vực này còn phụ thuộc vào doanh nghiệp nhập khẩu, liên quan tới yếu tố chi phí – lời lãi của doanh nghiệp. Do đó, còn có sự hạn chế trong việc tiếp cận của người dân.
Ông Moises Uribe, Giám đốc Điều hành Công ty Tư vấn Silverback Earth, chuyên gia về phát triển bền vững và quản lý chiến lược cho biết, với khoảng 25 triệu nữ giới hiện đang ở độ tuổi sinh sản tại Việt Nam, ước tính có khoảng 3,3 triệu người nằm trong độ tuổi từ 15 đến 19, trong đó có 170.000 người muốn phòng tránh thai; 16 triệu nữ giới ở độ tuổi từ 15 đến 49 chưa có mong muốn được xây dựng gia đình, trong đó 21% có nhu cầu về phòng tránh thai nhưng chưa được đáp ứng. Nhiều người trong số đó đang sử dụng những biện pháp phòng tránh thai mang tính truyền thống và không đáng tin cậy, dẫn đến mang thai ngoài ý muốn, kéo theo tình trạng về suy dinh dưỡng ở trẻ em, làm trầm trọng thêm khoảng cách kinh tế xã hội cho quốc gia.
“Nếu nhu cầu tránh thai được đáp ứng, Việt Nam hoàn toàn có giảm các trường hợp mang thai ngoài ý muốn xuống khoảng 68%, tức là từ 2,1 triệu trường hợp mang thai ngoài ý muốn xuống còn khoảng 700.000 trường hợp. Nhờ vậy thì tỷ lệ phá thai cũng sẽ giảm xuống nhiều so với tỷ lệ hiện tại”, ông Moises khẳng định.
Cũng theo ông, tác động kinh tế xã hội do mang thai ngoài ý muốn là rất lớn. Việt Nam phải chi tiêu khoảng 600 triệu đô la/năm cho vấn đề này, bao gồm chi phí liên quan đến thuốc tránh thai, các ca phá thai, chăm sóc trực tiếp, nghỉ sinh v.v.
Để giảm bớt tình trạng mang thai ngoài ý muốn và nạo phá thai, Chính phủ có thể cải thiện các chính sách về sức khỏe sinh sản, xã hội bằng cách (1) đầu tư vào các chương trình giáo dục giới tính quy mô lớn kết hợp với các chiến dịch truyền thông để tuyên truyền biện pháp tránh thai đúng đắn, an toàn và hiệu quả cho trẻ vị thành niên từ sớm; (2) tập trung xây dựng các chương trình nhằm thu hẹp khoảng cách tiếp cận các biện pháp phòng tránh thai hiệu quả và tin cậy, tăng cường đầu tư các dịch vụ y tế về sinh sản và tình dục, đặc biệt dành cho người dân có thu nhập thấp, tạo ra bình đẳng trong y tế; (3) phát triển các chương trình nghề nghiệp liên kết với các sáng kiến xã hội. Với mỗi 1% số ca sinh ngoài ý muốn được giảm xuống, Việt Nam có thể giải phóng tới 6 triệu USD chi phí trực tiếp, qua đó cũng sẽ giảm được tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và giảm suy dinh dưỡng mạn, tăng cường sức khỏe cho thế hệ tương lai và từ đó giảm được tỷ lệ bỏ học, trao cơ hội công bằng cho nữ giới trên toàn quốc.
Việt Nam có nhóm dân số trẻ tăng nhanh và đông đảo, đồng thời cũng bước vào thời kỳ già hóa dân số một cách nhanh chóng. Những yếu tố này tác động vào sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam cũng như việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội quốc gia. Việt Nam xác định tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Việc thực thi thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 vì vậy có vai trò quan trọng đảm bảo Việt Nam có thể phát triển bền vững hay không và việc đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình cần được đặt lên ưu tiên.