web analytics

Xung quanh việc lấy ý kiến dự thảo về hàng hóa “made in Vietnam” 16/08/2019

(KDTT) – Bộ Công thương đang tổ chức lấy ý kiến cho dự thảo Thông tư “Quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam”, được công bố ngày 25-7 vừa qua. Theo đó, ngoài những mặt tích cực, dự thảo này vẫn còn một số bất cập, thiếu tính thống nhất với các văn bản quy phạm, chế tài liên quan.

Chia sẻ với báo chí về tính cần thiết của dự thảo này, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh cho biết: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2017/NĐ-CP về nhãn hiệu hàng hóa. Theo đó, mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam hoặc nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam đều phải ghi nhãn cho hàng hóa, trừ một số trường hợp quy định tại khoản 2, điều 1 của Nghị định. Quy định về ghi nhãn hàng hóa đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, Nghị định cũng phát sinh một số bất cập, như các quy định mới chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu, giúp hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu theo cam kết tại các hiệp định thương mại tự do, hoặc phục vụ các mục tiêu khác của quản lý ngoại thương. Với hàng hóa sản xuất, bao gồm cả sản xuất từ đầu vào nhập khẩu, và sau đó lưu thông trong nước, hiện chưa có quy định như thế nào thì được gắn nhãn “sản phẩm của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam”. Hơn nữa, việc thiếu các quy định chỉ rõ như thế nào thì một sản phẩm được coi là “sản phẩm của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam”, khiến nhiều tổ chức và cá nhân lúng túng, khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ trên nhãn sản phẩm. Ngược lại, một số mặt hàng dù chỉ trải qua các công đoạn gia công, lắp ráp, chế biến đơn giản tại Việt Nam, nhưng cũng gắn nhãn “sản xuất tại Việt Nam”, khiến người tiêu dùng thắc mắc, bức xúc, nhưng các cơ quan chức năng lại không có căn cứ để xử lý.

Dự thảo Thông tư gồm một số nội dung chính, như: Các điều khoản chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và giải thích các thuật ngữ sử dụng trong Thông tư; Các trường hợp được phép và không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam, cách thức và ngôn ngữ thể hiện; Các trường hợp, tiêu chí để hàng hóa được coi là hàng hóa của Việt Nam; Các quy định khác liên quan đến việc xác định hàng hóa của Việt Nam (gia công đơn giản, bao bì phụ kiện, tỷ lệ linh hoạt, yếu tố gián tiếp);  Quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa và tổ chức thực hiện.

Theo dự thảo Thông tư, hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trong hai trường hợp sau: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam theo quy định tại Điều 8 Thông tư; Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam, làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa theo quy định tại Điều 9 Thông tư. Cùng với đó, hàng hóa đươc gọi là hàng hóa thuần túy có xuất xứ từ Việt nam phải đạt “hàm lượng giá trị khu vực” (RVC) là 30%. Tại sao lại đặt ra ngưỡng VAC là 30% mà không phải ngưỡng cao hơn, (thí dụ như 60% của Thụy Sỹ hay 50% của Mỹ) mới được coi là hàng hóa của Việt Nam? Trả lời câu hỏi này, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết: Nhiều sản phẩm xuất khẩu của ta chỉ cần đáp ứng VAC 30% là được các nước bạn hàng công nhận là xuất xứ Việt Nam. Đặt ra các ngưỡng cao hơn 30% hoặc bổ sung thêm điều kiện không khó, chỉ cần thay 2 chữ số, viết thêm vài câu là xong, nhưng nếu vậy sẽ xuất hiện tình huống oái oăm là cả thế giới công nhận, nhưng riêng Việt Nam lại không công nhận một sản phẩm nào đó là sản phẩm của mình.

Trước thắc mắc về việc, tại sao trong khu vực ASEAN, hàng hóa phải đạt hàm lượng giá trị gia tăng là 40% mới được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ mà tại dự thảo Thông tư này, chỉ cần hàm lượng 30% đã được coi là hàng hóa Việt Nam? Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết: Trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, hàm lượng giá trị gia tăng được gọi “hàm lượng giá trị khu vực” (RVC). Tên gọi này đã thể hiện tính chất “khu vực” của quy tắc xuất xứ, tức là cho phép cộng gộp xuất xứ của các nước thành viên. Ví dụ, với RVC 40% trong ASEAN thì 1 sản phẩm có 20% giá trị của Thái Lan, 10% của Philippines, 5% của Lào và 5% của Việt Nam sẽ được coi là đạt tiêu chí xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D. Thông tư này quy định chặt hơn. Cụ thể, tỷ lệ giá trị gia tăng 30% là chỉ tính riêng giá trị của Việt Nam.

Theo dự thảo Thông tư, hàng hóa mang nhãn hiệu “made in Vietnam” phải có giá trị hàm lượng khu vực là 30%. (Ảnh minh họa)

Thông tư này không áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu. Đối với việc gắn nhãn “made in Vietam” trên hàng hóa xuất khẩu, Bộ Công Thương đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác, giúp xác định xuất xứ, cả với thị trường mà ta có quan hệ thương mại tự do cũng như những thị trường mà ta chưa có quan hệ thương mại tự do.

Để giúp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nắm bắt, hiểu rõ hơn về nội dung Thông tư này, Bộ Công thương sẽ thực hiện công tác phổ biến và tuyên truyền. Việc đăng tải dự thảo Thông tư chỉ là bước đầu, sau đó Bộ Công Thương sẽ tổ chức các buổi hội thảo, giới thiệu dự thảo và xin ý kiến các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông nhằm giải thích, làm rõ mục tiêu ban hành Thông tư cũng như những nội dung mang tính kỹ thuật để doanh nghiệp, người dân có thể hiểu, góp ý được sát thực.

Theo KDPT