Đây là buổi hội thảo để các chuyên gia đánh giá tác động định lượng của Hiệp định EVFTA lên vấn đề lao động và việc làm đến năm 2025 nhằm xác định những cơ hội, thách thức để đề ra các giải pháp trong ngắn hạn và dài hạn đối với Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.

Hội thảo đánh giá tác động của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam-EU (EVFTA) đối với vấn đề lao động, việc làm.

Cùng với đó là nghiên cứu sử dụng các lý thuyết thương mại để vận dụng giải thích cơ chế tác động của EVFTA đến lao động và việc làm.

Tác động của EVFTA đến việc làm cả ở khu vực thành thị và nông thôn. Theo cơ sở dữ liệu, EVFTA sẽ tạo thêm khoảng 145 nghìn việc làm cho giai đoạn 2022-2025, bình quân khoảng 36,5 nghìn/năm tăng 0,059 so với kịch bản không có EVFTA. Do ảnh hưởng lan tỏa, nên sẽ nhiều việc làm trong các ngành cung cấp dịch vụ hàng hóa cho ngành xuất khẩu sang EU được tạo ra, tác động EVFTA đến khu vực thành thị và nông thôn không có sự khác biệt nhiều (0,058%). Một số ngành có tác động mạnh từ hiệp định EVFTA như xây dựng (0,065%); Công nghiệp chế biến, chế tạo (0,063%); Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (0,061%)…

Tác động của EVFTA đến tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với nhóm ngành có khối lượng xuất, nhập khẩu sang các nước EVFTA, cho thấy các yếu tố về chỉ số về định hướng xuất khẩu (X/Y) và chỉ số thâm nhập nhập khẩu (M/M+Y) không thật sự có tác động đến tỷ lệ lao động tham gia BHXH, các hệ số không có ý nghĩa thống kê mức 5%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động tham gia BHXH trong từng ngành ở thời điểm sau khi hiệp định có hiệu lực (quý 3/2020) tăng lên so với trước khi hiệp định có hiệu lực.

Ở vấn đề tiền lương, giá trị thương mại giữa Việt Nam và các nước có tác động tích cực tới tiền lương bình quân. Giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa tăng, tiền lương bình quân của lao động cũng tăng. Thuế suất xuất khẩu mang dấu âm, hàm ý rằng thuế suất giảm có tác động tích cực làm tăng tiền lương bình quân của lao động. So với các khu vực khác, tiền lương bình quân của người lao động làm việc trong khu vực xuất khẩu hay nhập khẩu từ các nước thuộc EVFTA cao hơn so với các khu vực còn lại khoảng 17% đến 28%. Sau thời điểm hiệp định EVFTA có hiệu lực tiền lương bình quân của người lao động, cũng cao hơn khoảng 11% so với thời điểm trước khi hiệp định EVFTA có hiệu lực.

Đối với người lao động, khi xuất khẩu từ các nước thuộc EVFTA có tác động tích cực đến cơ hội có việc làm thỏa đáng của người lao động, tuy nhiên khi nhập khẩu hàng hóa từ các nước thuộc EVFTA thì làm giảm xác suất có việc làm thỏa đáng của người lao động.

EVFTA tới lao động và việc làm đến năm 2025 sẽ tạo thêm việc làm, tăng thêm khoảng 36,5 nghìn, không có sự khác biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn.

Tác động mạnh đến nhóm lao động từ 15 đến 34 tuổi. Tạo ra cơ hội việc làm cho lao động trình độ thấp. Việc làm tăng mạnh ở nhóm ngành như xây dựng (0,065%); Công nghiệp chế biến, chế tạo; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm. Xác suất có việc làm thỏa đáng, có lợi hơn đối với nhóm lao động nữ, nhóm lao động có trình độ cao và lao động khu vực thành thị. Mức tiền lương bình quân của người lao động cao hơn khoảng 11% so với thời điểm chưa có hiệu lực. Hưởng lợi hơn về mức lương thuộc về nhóm lao động nữ, lao động ở khu vực thành thị và nhóm lao động có trình độ cao hơn.

ĐỨC TRUNG

Theo KDPT