Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, trong mức tăng 0,39% của CPI tháng 11/2022 so với tháng trước có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 03 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Ảnh minh họa.

Trong đó, nhóm giao thông tăng cao nhất với 2,23% (làm CPI chung tăng 0,22 điểm phần trăm) do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước vào ngày 01/11/2022, 11/11/2022 và 21/11/2022 làm cho giá xăng dầu tăng 5,83% (xăng tăng 5,84%; dầu diezen tăng 5,25%). Bên cạnh đó, chỉ số giá nhóm phương tiện đi lại tăng 0,15%; phụ tùng tăng 0,16%; dịch vụ khác với phương tiện vận tải cá nhân tăng 0,15%; dịch vụ giao thông công cộng tăng 0,14%.

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,97% (làm CPI chung tăng 0,18 điểm phần trăm) do nhu cầu thuê nhà tăng cao làm giá tiền thuê nhà ở tăng 1,54%; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,45% do công sơn và xây tường, lát gạch, công lao động phổ thông tăng, nhu cầu sửa chữa và xây dựng nhà vào cuối năm tăng cao; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,28% do giá xi măng, gạch xây, gạch bê tông, tấm lợp, sơn tường tăng theo giá nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất; giá gas tăng 5% do từ ngày 01/11/2022, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 20.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới tăng 35 USD/tấn (từ mức 575 USD/tấn lên mức 610 USD/tấn); giá dầu hỏa tăng 7,02% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá ngày 01/11/2022, 11/11/2022 và 21/11/2022. Ở chiều ngược lại, giá nước và giá điện sinh hoạt lần lượt giảm 0,09% và 1,79% do thời tiết mát mẻ nên nhu cầu sử dụng điện, nước giảm.

Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,26% do nhu cầu tiêu dùng và tỷ giá đô la Mỹ tăng cao; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,22% do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí vận chuyển và nhu cầu mua sắm quần áo mùa đông tăng; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác cùng mức tăng 0,22% tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ trang sức tăng 1,08%; cắt tóc, gội đầu tăng 0,23%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,1%; đồng hồ đeo tay tăng 0,56%.

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,21% tập trung chủ yếu ở các mặt hàng như: Giá tủ lạnh tăng 0,16%; máy hút bụi tăng 0,25%; bình nóng lạnh tăng 0,14%; máy in, máy chiếu và máy quét tăng 0,13%; máy xay sinh tố, ép hoa quả tăng 0,18%; xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,26%; giường, tủ, bàn ghế tăng 0,26%; bếp gas tăng 0,1%… Ở chiều ngược lại, giá máy điều hòa nhiệt độ giảm 0,22%; máy vi tính và phụ kiện để bàn giảm 0,05%.

Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch cùng mức tăng 0,21% do dịch vụ văn hóa tăng 0,28%; trong tháng có ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 làm nhu cầu mua hoa tăng khiến chỉ số giá nhóm hoa, cây cảnh, vật cảnh tăng 1,91%; giá vé xem phim, ca nhạc tăng 0,82%; đồ chơi tăng 0,29%.

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,06%.

Các nhóm hàng có chỉ số giảm gồm, nnhóm giáo dục giảm 0,63% (làm CPI chung giảm 0,04 điểm phần trăm), trong đó chỉ số giá dịch vụ giáo dục giảm 0,71% chủ yếu do thành phố Hà Nội thực hiện hỗ trợ học phí cho các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, các trung tâm dạy nghề – giáo dục thường xuyên theo Nghị quyết số 17/2022/NQ-HĐND ngày 12/9/2022, theo đó chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục của Hà Nội giảm 9,54%, tác động làm giảm chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục cả nước.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,07% (làm CPI giảm 0,02 điểm phần trăm), trong đó: Lương thực tăng 0,59% (tác động CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm) chủ yếu do các nhà xuất khẩu tăng cường thu mua lúa từ nông dân để hoàn thành các hợp đồng đã ký, đồng thời tỷ giá USD tăng làm cho giá gạo xuất khẩu tăng cao đã khuyến khích các nhà xuất khẩu đẩy mạnh bán hàng ra nước ngoài; thực phẩm giảm 0,3% (tác động CPI chung giảm 0,06 điểm phần trăm) do tình hình chăn nuôi ổn định, dịch bệnh được kiểm soát tốt, tổng đàn gia súc, gia cầm tăng so với cùng kỳ năm 2021, thời tiết ấm áp thuận lợi cho việc thu hoạch rau xanh nên giá một số mặt hàng giảm; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,22% (tác động CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm).

Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,02%.

Lạm phát cơ bản tháng 11/2022 tăng 0,43% so với tháng trước, tăng 4,81% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 2,38% so với cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,02%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực và giá xăng dầu.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/11/2022, bình quân giá vàng thế giới ở mức 1.727,52 USD/ounce, tăng 3,33% so với tháng 10/2022. Giá vàng tăng mạnh do lạm phát Mỹ tháng 10 đã hạ nhiệt, kéo theo kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể giảm tốc độ tăng lãi suất. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 11/2022 tăng 1,82% so với tháng trước; tăng 3,95% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 11 tháng năm 2022 tăng 5,88% so với cùng kỳ năm trước.

Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới biến động tăng, giảm đan xen. Trong cuộc họp chính sách ngày 02/11/2022, FED đã quyết định tăng lãi suất 0,75 điểm phần trăm, đưa lãi suất quỹ liên bang lên 3,75-4%. Đây là lần tăng 0,75 điểm phần trăm thứ tư liên tiếp do FED đưa ra và là lần tăng lãi suất thứ sáu kể từ tháng 3/2022. Tuy nhiên, sau khi lạm phát Mỹ trong tháng 10 thấp hơn dự kiến đã khiến đồng đô la Mỹ giảm mạnh. Tính đến ngày 25/11/2022, chỉ số đô la Mỹ bình quân tháng 11/2022 trên thị trường quốc tế đạt mức 108,16 điểm, giảm 3,4 điểm so với tháng trước. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 24.855 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2022 tăng 2,91% so với tháng trước và tăng 8,71% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 11 tháng năm 2022 tăng 1,83% so với cùng kỳ năm trước.